Giữ xanh “quần đảo bão tố” - Bài 2: Khơi dòng nước ngọt từ lòng đại dương
VBĐVN.vn - Trồng được rau xanh, nhưng nước ngọt đâu để tưới? Bài toán nan giải đặt ra cho chỉ huy các đảo Trường Sa lúc đó phải "khơi dòng nước ngọt giữa lòng biển khơi" vừa để bộ đội ăn uống sinh hoạt, tưới rau xanh; vừa để phục vụ các công trình kiến tạo trên đảo.
Những giếng nước "thần"
Trong hành trình đi tìm nhân chứng lịch sử việc đào giếng tìm mạch nguồn nước ngọt ở đảo Trường Sa sau ngày giải phóng năm 1975, tôi may mắn được gặp Đại tá Nguyễn Viết Nhất, người đã từng một thời "ăn sóng nói gió" lăn lộn giữa khí hậu khắc nghiệt tìm mạnh nước ngầm ở đảo Trường Sa.
Giữa đại dương khí hậu khắc nghiệt vô cùng, những giọt nước ngọt quí như những giọt vàng. Mỗi người một lít mỗi ngày để rửa mặt và đánh răng. Tắm bằng nước lợ từ giếng đảo. Khó khăn gian khổ là thế, nhưng tất cả CBCS hải quân đều xác định yên tâm tư tưởng, bám đảo, vững vàng tay súng canh chủ quyền Tổ quốc.
Ông kể: "Giữa Trường Sa bốn bề biển mặn nắng cháy da và khô hanh quanh năm, vậy mà chúng tôi vẫn tìm ra nước ngọt. Nói là nước ngọt, song thực chất là nước lợ, uống hơi mằn mặn. Dùng cho tắm giặt của bộ đội tốt chán. Còn đối với tưới rau xanh thì phải dùng nước ngọt từ đất liền đem ra. Nước rửa mặt, nước vo gạo dồn lại tưới rau. Những giếng nước chúng tôi đào ở Trường Sa ngày ấy được ví như những giếng nước thần giữa lòng đại dương"- ông Nhất hồi tưởng lại.
Câu chuyện đào giếng khơi dòng nước ngọt ở đảo Trường Sa mà cựu chiến binh Nguyễn Viết Nhất, lúc đó là Trung úy, Phó Đại đội trưởng về Chính trị Đại đội 1, Tiểu đoàn 881 Trung đoàn 131 Công binh Hải quân như một sự tái hiện hùng hồn những ngày tháng gian khổ mà đẹp đẽ nhất của người sĩ quan trẻ. Ông Nhất bảo: "Trường Sa những năm 1988 vô cùng khắc nghiệt. Nước ngọt chở từ đất liền ra được bộ đội tiết kiệm rất chi li và chủ yếu dùng cho kiến tạo đảo, còn anh em chúng tôi tuần tắm một lần, đánh răng rửa mặt mỗi người một lít/ngày".
Không thể bó tay chờ đợi trời mưa, không thể để bộ đội nhịn tắm, nhưng làm thế nào để có nước ngọt cho bộ đội sinh hoạt, có thể đào giếng khơi từ lòng đảo được không? Kế hoạch đào giếng tại đảo bắt đầu.
Sau khi báo cáo, được cấp trên chấp thuận, những người lính Công binh Hải quân ban ngày trằn mình trong nắng lửa thực hiện nhiệm vụ và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tối tranh thủ thời gian đào giếng khơi dòng. Trăng tháng hai vằng vặc soi sáng những tấm lưng sạm màu nắng gió. Khi trên tấm lưng ấy đẫm mồ hôi, cũng là lúc nửa đêm về sáng. Khát khao khơi được dòng nước từ lòng đảo, không ai bảo ai, các chiến sĩ tìm dòng nước ngọt như tìm sự sống cho mình mà không hề quản ngại sức khỏe, quên đi mệt nhọc.
Là người trực tiếp chỉ huy bộ đội đào giếng, Đại tá Nguyễn Viết Nhất bảo: "Trên trời nắng lửa, dưới biển nước mặn, lúc giải lao sau giờ cầm bay xây đảo, chúng tôi chỉ muốn lội xuống biển ngâm mình. Khát cháy họng ca nước ngọt, nhưng không phải lúc nào cũng uống thỏa thích. Cả đại đội chỉ 2 ru-mi-nhê chừng 30 lít cho cả ngày. Số lượng ấy chỉ đủ cho 5 người, vậy mà ai cũng mát lòng".
Sau những ngày "tổng lực", dòng nước ngọt đầu tiên được khơi nguồn. Cán bộ chiến sĩ Công binh Hải quân Trung đoàn 131 không thể nào quên cái buổi sáng ấy. Hàng trăm chiến sĩ hò reo phấn khởi khi nhìn thấy trong lòng giếng có nước, cách mặt đảo 3 mét. Họ hô lớn "có nước ngọt rồi, có nước ngọt rồi, hoan hô, hoan hô". Mấy chiến sĩ trẻ đã nhanh chóng chạy về nhà lấy xô nhôm buộc dây thừng thả xuống giếng múc nước. Nhưng mọi người đều ngỡ ngàng thất vọng, đó là nước lợ, chát, không thể nào uống được.
Cuộc thử nghiệm không thành
"Không uống được thì xây đảo", nghĩ vậy, ngay ngày hôm sau, các chiến sĩ Công binh đã múc nước giếng trộn hồ. Do nước lợ nên hồ trộn không nhuyễn. Khi xây thử nghiệm, tường vẫn đứng vững nhưng sáng hôm sau thì ngả mầu trắng và bong từng lớp hồ do muối mặn, các thanh sắt có hiện tượng gỉ sét. Từ ngày ấy, nước giếng chủ yếu dùng cho bộ đội tắm giặt. Sau những giờ "lăn lê bò trườn" trên thao trường huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và xây đảo, bộ đội ra giếng dội nước ào ào. Chính những xô nước lợ ấy đã giúp cán bộ chiến sĩ thêm yêu cuộc sống, yên tâm tư tưởng quyết tâm bám đảo.
Nhớ lại những ngày đầu tiên gian khó ấy, Đại tá Nguyễn Viết Nhất chia sẻ: "Ngày ấy có nước lợ giặt giũ là quá tốt rồi. Cứ tưởng một tuần tắm 1 lần, còn đánh răng rửa mặt "theo kế hoạch" thì chịu sao nổi. Vậy mà chúng tôi đã chịu đựng được những ngày tháng gian khổ nhất. Bộ đội bây giờ đi đảo có thể được nằm máy lạnh, nhưng ngày xưa được uống ca nước lã là hạnh phúc lắm rồi. Nếu không có những ngày gian khổ ấy, thì sao có được hôm nay. Những tháng năm chúng tôi sống ở Trường Sa thực sự là những tháng năm gian truân nhưng vô cùng vinh dự".
Ông Nhất kể thêm, những năm 80 của thế kỷ XX, đảo Trường Sa lớn ban ngày nhiệt độ nóng đến 38 độ, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Thời điểm đó, ngoài Trường Sa Lớn và Song Tử Tây không có đảo nào có nước ngọt. Hai đảo này có bể chứa nước của địch để lại, mỗi bể chừng 6 khối, nhưng cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim.
Trước tình thế ấy, chỉ bằng một cách là tiết kiệm tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền. Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người một lít một ngày cho cả đánh răng rửa mặt. "Nói là một lít, nhưng chúng tôi múc đầy cái cà-mèn của Liên Xô cũng được hơn một lít. Chừng ấy nước, lúc xây đảo, tôi chỉ tu hai hơi là hết, vậy mà phải uống dè", ông Nhất chia sẻ.
Ngoài tiêu chuẩn mỗi người một cà-mèn/ngày/một lít đánh răng rửa mặt, chiều chiều các chiến sĩ lội xuống biển tắm, người nọ kỳ lưng cho người kia, tắm xong anh em lên dội lại nước lợ từ giếng. Lâu ngày ở đảo, cán bộ chiến sĩ người nào cũng đen “troay”, khi cười chỉ nhìn thấy răng và mắt. Việc ăn uống vô cùng khổ sở. Có khi, mỗi bữa ăn, cả đại đội chỉ có 4 hộp thịt hộp của Liên Xô, đổ thêm nước rồi nấu sôi, chan cơm. Anh em thèm một bữa rau xanh nhưng lấy đâu ra giữa nơi chỉ có nắng gió cát và sỏi đá ấy.
Những "loa thành" từ những giọt nước vàng
Để bảo đảm tiến độ kiến tạo, cán bộ chiến sĩ Công binh Hải quân Trung đoàn 83 và 131 vừa phải chạy đua với thời gian, vừa phải chống chọi với khí hậu khắc nghiệt. Sau chuyến tàu Đại Khánh và tàu TLU (tàu của Liên Xô sản xuất), nhiều chuyến tàu sau đó liên tục vận chuyển nước ngọt từ đất liền ra xây đảo. Ngày tiếp nhận nước ngọt, cả đảo vui mừng như ngày hội, các chiến sĩ trẻ hò reo vang khắp đảo.
Theo quy định, mỗi lần nhận nước ngọt, sau khi chuyển nước từ tàu vào đảo, mỗi chiến sĩ được tắm, giặt 30 lít (1 can). Hàng trăm bước chân lội xùm xùm xuống nước bám chặt vào san hô, hàng trăm can nước được cõng trên vai vào đảo. Ngời sáng trên những khuôn mặt mặn mòi da bánh mật là nụ cười quên hết nhọc nhằn.
Sau những can nước ngọt cõng vào đảo, các chiến sĩ bắt đầu "nới tay". Người nọ múc nước tưới lên lưng người kia, người này kỳ ghét cho người khác. Họ nói, lâu lắm rồi nay mới được gội đầu, nay mới có được nước ngọt thấm đẫm làn da.
"Đói có thể nhịn được chứ khát thì không thể. Khó khăn nhất lúc ấy vẫn là nước ngọt. Trên lưng anh em bọn tớ đã cõng hàng nghìn can nước trên vai, đi hết đảo này đến đảo khác. Lúc ấy khí thế luôn hừng hực, tình yêu Tổ quốc luôn đầy ắp trong tim. Nhiều chiến sĩ đã anh dũng ngã xuống để những loa thành mang dáng hình Tổ quốc mọc giữa ngàn khơi" - Đại tá Nguyễn Viết Chức bồi hồi chia sẻ.
Mai Thắng (baotainguyenmoitruong.vn)
Ý kiến bạn đọc
Tên của bạn
Địa chỉ email
Nội dung bình luận