Cảnh sát biển Việt Nam được nổ súng trong hoàn cảnh nào?
VBĐVN.vn - Ngoài các trường hợp đã quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, Cảnh sát biển có quyền được nổ súng đối với các tàu và phương tiện trên biển, trừ tàu thuyền của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự nước ngoài, đại diện tổ chức quốc tế, tàu thuyền có chở người hoặc có con tin (Điều 14 - Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018). Tuy nhiên, quyền này bị giới hạn trong một số trường hợp.
Luật Cảnh sát biển Việt Nam 2018 quy định: Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn trên biển.
Cảnh sát biển có nhiệm vụ thu thập thông tin, phân tích, dự báo tình hình để tham mưu, đề xuất phương án bảo vệ an ninh quốc gia và thực thi pháp luật trên biển; nghiên cứu, tham mưu với cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật về bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trong vùng biển Việt Nam.
Cảnh sát biển còn tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, an ninh, lợi ích quốc gia và tài nguyên, môi trường biển, tài sản, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, cá nhân trên biển; đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn trên biển; tìm kiếm, cứu nạn và tham gia khắc phục sự cố môi trường biển...
Khi thi hành nhiệm vụ, cảnh sát biển Việt Nam được sử dụng vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và được nổ súng quân dụng theo quy định pháp luật. Ngoài các trường hợp đã quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, Cảnh sát biển có quyền được nổ súng đối với các tàu và phương tiện trên biển, trừ tàu thuyền của cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự nước ngoài, đại diện tổ chức quốc tế, tàu thuyền có chở người hoặc có con tin (Điều 14 - Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018). Tuy nhiên, quyền này bị giới hạn trong một số trường hợp, khi và chỉ khi:
a) Đối tượng điều khiển tàu thuyền đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;
b) Khi biết rõ tàu thuyền do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn;
c) Khi biết rõ tàu thuyền chở đối tượng phạm tội hoặc chở vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn;
d) Khi tàu thuyền có đối tượng đã thực hiện hành vi cướp biển, cướp có vũtrang theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của pháp luật về hình sự cố tình chạy trốn.
Cần thiết nhắc lại rằng, việc sử dụng súng có thể mang lại hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, nổ súng trên biển cần phải bị hạn chế. Cảnh sát biển chỉ nổ súng trong trường hợp khẩn cấp, sau khi ra lệnh dừng lại bằng tín hiệu, hành động và âm thanh, hoặc nổ súng cảnh báo trước và nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền khi thực hiện nhiệm vụ có tổ chức.
Có thể nói, quy định tại Điều 14 Luật Cảnh sát biển về quyền được nổ súng của Cảnh sát biển Việt Nam đã phù hợp với quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Việc cho phép Cảnh sát biển được quyền nổ súng để đảm bảo tính khả thi, không gây khó khăn, không bị lỡ thời cơ trong thực thi pháp luật trên biển. Đặc biệt, quy định này góp phần tạo nên sức mạnh vũ trang của Lực lượng, nhằm bảo đảm an ninh trật tự, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả với các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nhất là trước những hành vi manh động và nguy hiểm của bọn cướp biển, cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển.
Ý kiến bạn đọc
Tên của bạn
Địa chỉ email
Nội dung bình luận