Phát triển bền vững nghề nuôi biển - Bài 2: Tháo gỡ điểm nghẽn về chính sách

08:13 03-11-2022

VBĐVN.vn - Thủy sản là một trong những ngành tiên phong kiến tạo một nền sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn với doanh nghiệp làm nòng cốt, phát triển theo tiếp cận chuỗi giá trị, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững. Nhiều chính sách đã được ban hành nhằm phát triển ngành thủy sản nói chung và nuôi biển nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều điểm nghẽn gây khó khăn, lúng túng cho doanh nghiệp và cả cơ quan quản lý nhà nước.

Mô hình nuôi biển ở Bãi Nam, xã Hòn Nghệ (huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang). Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN

Những bất cập trong thực tiễn

Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô và tỷ suất hàng hóa lớn, theo định hướng thị trường, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu; trên cơ sở thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, với lực lượng doanh nghiệp là nòng cốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả.

Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đưa ra quan điểm đầu tư phát triển nuôi biển thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đóng góp quan trọng về sản lượng, giá trị và chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong toàn bộ ngành thủy sản, lấy doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt để đầu tư phát triển nuôi biển quy mô công nghiệp ở vùng biển xa; kết hợp với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển vững mạnh, tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo của Tổ quốc.

Mặc dù đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển ngành công nghiệp nuôi biển, tuy nhiên, trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn. Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho biết, thực tế, nhận thức về các chủ trương, chính sách nêu trên chưa được quán triệt và thực thi đầy đủ, cả trong cộng đồng nhân dân lẫn một số bộ phận của cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó, có thể kể ra một số điểm nghẽn chính gồm: thiếu quy hoạch; thủ tục giao khu vực biển cho tổ chức, ngư dân còn rắc rối; cần sớm ban hành tiêu chuẩn và quy chuẩn Việt Nam về nuôi biển; chưa có cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm cho việc đăng ký, đăng kiểm cho cơ sở và phương tiện nuôi biển; chưa có chương trình đào tạo nhân lực cho ngành nuôi biển.

Đối với quy hoạch về nuôi biển, theo Luật Thủy sản, các dự án nuôi trồng thủy sản phải nằm trong vùng được quy hoạch. Cùng với đó, Luật Quy hoạch có hiệu lực từ ngày 1-1-2019 yêu cầu phải điều chỉnh và tích hợp các quy hoạch đã được phê duyệt trước đó vào hệ thống quy hoạch mới, trong khi đa số các quy hoạch mới có liên quan đến phát triển nuôi thủy sản đều chưa được xây dựng và phê duyệt, gây khó khăn cho việc thực hiện Luật Thủy sản.

Ở cấp quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt. Quy hoạch cấp tỉnh phần lớn đều đang được xây dựng và chưa được phê duyệt, nên chưa có cơ sở để xác định rõ vùng có thể phát triển nuôi biển trong phạm vi từ 6 hải lý trở vào theo Luật Thủy sản, không cản trở các hoạt động kinh tế biển khác. “Không có quy hoạch, không giao được các khu vực biển cụ thể cho người nuôi. Đây là điểm nghẽn lớn nhất cản trở việc phát triển công nghiệp nuôi biển, gây bức xúc cho cộng đồng doanh nghiệp và ngư dân, khiến cơ quan quản lý nhà nước các địa phương ven biển bối rối”, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng nhận định.

Để tháo gỡ điểm nghẽn này, các quy hoạch trên cần sớm được phê duyệt, đồng thời cần xây dựng quy hoạch theo tư duy phối hợp chặt chẽ các ngành kinh tế biển với nhau (như dầu khí, du lịch biển, thủy sản, đóng tàu, vận tải biển, năng lượng tái tạo biển, khai khoáng biển, đô thị biển, dịch vụ biển...) nhằm tận dụng và phát huy thế mạnh tổng thể đa ngành, khai thác và sử dụng tối đa tiềm năng không gian biển.

Đối với rắc rối trong thủ tục giao khu vực biển, hiện nay, thủ tục giao khu vực biển cụ thể cho tổ chức, cá nhân sử dụng lâu dài cho nuôi biển (tối đa là 30 năm, có thể gia hạn 20 năm) gồm hai bước do hai cơ quan nhà nước thực hiện là: cấp phép nuôi trồng thủy sản trên biển do ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện; giao khu vực biển cho tổ chức cá nhân nuôi biển, do ngành Tài nguyên Môi trường thực hiện. Việc này cần nhiều giấy tờ và thủ tục chồng chéo, gây phiền phức và tốn thời gian cho các tổ chức, cá nhân nuôi biển.

Một “điểm nghẽn” khác là tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam về nuôi biển. Đến nay, đối với lĩnh vực nuôi biển, ngành Nông nghiệp chưa ban hành được các tiêu chuẩn, quy chuẩn cần thiết, đặc biệt là về lĩnh vực yêu cầu kỹ thuật, bảo đảm an toàn cho cơ sở, phương tiện nuôi, an toàn sinh học cho vật nuôi và vùng nuôi, vật liệu an toàn cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển...

Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho biết, trong 3 năm gần đây, Hiệp hội đã tiến hành xây dựng Tiêu chuẩn Cơ sở số TCCS 01:2022/VSA “Cơ sở nuôi cá trên biển theo phương thức công nghiệp”, đã tổ chức lấy ý kiến các cơ quan hữu quan và ngư dân, sẽ hoàn chỉnh và ban hành trong tháng 10-2022.

Mặt khác, chưa có cơ quan nhà nước nào được phân công chịu trách nhiệm đăng ký, đăng kiểm cho loại hình cơ sở, phương tiện phương tiện nuôi biển và phục vụ nuôi trên biển; thủ tục đăng ký, đăng kiểm loại hình này cũng chưa được ban hành. Do đó, cơ sở nuôi biển và phương tiện nuôi biển không thể được công nhận là tài sản và được định giá tương xứng một cách hợp pháp, để làm cơ sở cho việc mua bảo hiểm, vay vốn ngân hàng, đấu giá, chuyển nhượng hay thừa kế. Tình trạng này gây nhiều khó khăn cho chính hoạt động quản lý nhà nước.

Cũng do chưa có cơ sở pháp chế kỹ thuật quản lý lĩnh vực nuôi trên biển, bao gồm các tiêu chuẩn, quy chuẩn và thực hiện việc đăng ký, đăng kiểm cho các cơ sở và phương tiện trong lĩnh vực này, các cơ sở nuôi trên biển chưa hề được bảo hiểm, do các công ty bảo hiểm không thể chấp nhận rủi ro khi chưa có được các cơ sở pháp chế kỹ thuật để thực hiện.

Từ trước đến nay, chưa có chương trình đào tạo nhân lực trong nước cho ngành ngành nuôi biển. Đây là điểm nghẽn lớn, cần xây dựng chính sách hỗ trợ thường xuyên cho đào tạo nguồn nhân lực nuôi biển công nghiệp.

Hoàn thiện chính sách hỗ trợ nuôi biển

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xây dựng trình Chính phủ một Nghị định mới thay thế Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản ban hành năm 2014, bổ sung các chính sách hỗ trợ phát triển nuôi biển. Bản dự thảo gần đây nhất vào cuối tháng 8/2022 của Nghị định mới đã đưa những điều khoản hỗ trợ phát triển nuôi biển cụ thể như: hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư mới cơ sở nuôi trồng thuỷ sản trên biển (bao gồm cá biển, nhuyễn thể, tôm hùm, rong biển), có quy mô nuôi tối thiểu 5 ha, hoặc có 10 lồng bè nuôi cá biển có thể tích tối thiểu 1.000 m3/lồng bè hoặc công suất tối thiểu 300 tấn sản phẩm nuôi/năm). Các cơ sở sử dụng vật liệu composite, HDPE làm lồng bè nuôi được nhận mức hỗ trợ 1 triệu đồng cho 1 m3 lồng bè nuôi cá biển ở vùng biển ngoài 6 hải lý; 0,5 triệu đồng cho 1 m3 lồng bè nuôi cá biển ở vùng biển từ 3 đến 6 hải lý; hỗ trợ không quá 30% giá trị cơ sở nuôi nhuyễn thể, rong biển, tôm hùm, không quá 1 tỷ đồng/cơ sở.

Dự thảo Nghị định có quy định hỗ trợ tổ chức, các nhân đầu tư mới cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá biển, có công suất sản xuất tối thiểu 5 triệu giống/năm; mức hỗ trợ không quá 30% giá trị cơ sở, không quá 10 tỷ đồng/cơ sở; hỗ trợ 100% kinh phí mua bảo hiểm tai nạn cho lao động làm việc tại cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá biển và nuôi trồng thủy sản trên biển; hỗ trợ 100% kinh phí mua bảo hiểm rủi ro thiên tai đối với tài sản của cơ sở nuôi trồng thủy sản trên biển biển ngoài 6 hải lý, 70% đối với tài sản của cơ sở từ 3 đến 6 hải lý...

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng cho biết, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đã đề nghị bổ sung thêm nội dung hỗ trợ cho nhóm đối tượng quan trọng và đông đảo nhất là hợp tác xã và hộ ngư dân nuôi biển trong vùng dưới 3 hải lý khi chuyển đổi vật liệu lồng bè truyền thống sang các vật liệu bền vững, thân thiện môi trường (HDPE, composite). Đây sẽ là nhóm đối tượng tạo nên sản lượng nuôi biển lớn nhất. Việc Chính phủ sớm ban hành Nghị định này trong năm nay sẽ tạo cú hích thúc đẩy lĩnh vực nuôi biển phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá cho ngành thủy sản Việt Nam.

Để phát triển bền vững công nghiệp nuôi biển, cần sớm xây dựng Chương trình khoa học - công nghệ phát triển nuôi biển công nghiệp đến năm 2030, theo định hướng phát triển bền vững,tiếp cận nuôi đa loài theo các mô hình IMTA (nuôi cá, nuôi nhuyễn thể và trồng rong biển); sớm hoàn thiện, ban hành Nghị định thay thế Nghị định 67/2014/NĐ-CP, trong đó có chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp nuôi biển bền vững, quy định rõ những chính sách hỗ trợ sau đầu tư, bảo hiểm, tín dụng và đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho nuôi biển công nghiệp; xây dựng và ban hành chính sách quản lý, bảo đảm sự phát triển bền vững của công nghiệp nuôi biển; ban hành cơ chế phối hợp trong quản lý giữa công nghiệp nuôi biển với các ngành kinh tế biển khác.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Võ Sĩ Tuấn, Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, khai thác thủy sản là ngành kinh tế biển xanh quan trọng của Việt Nam. Các ý tưởng quy hoạch không gian biển gần đây dường như quan tâm nhiều đến khuyến khích khai thác hải sản xa bờ. Nhiều vùng biển không xa bờ là ngư trường của nhiều loài di cư, di chuyển theo mùa và nguồn lợi này rất quan trọng với nền kinh tế và giải quyết việc làm cho 2 triệu ngư dân và duy trì các hoạt động kinh tế kèm theo (chế biến, giao thương). Hơn nữa, ngư dân nhiều địa phương không có kinh nghiệm, truyền thống đánh bắt xa bờ.

Quy hoạch không gian cho khai thác thủy sản trên vùng biển gần và xa bờ là cần thiết nhằm có chiến lược quản lý nghề cá phù hợp, giảm khai thác quá mức và chấm dứt tình trạng khai thác hủy diệt. Lưu ý rằng nghề cá, trong đó có nghề cá ven bờ, vẫn là trọng tâm của kinh tế biển.

Về nuôi trồng trên biển, hiện nay, các vùng nuôi lồng bè hiện nay chủ yếu gần bờ và ven đảo nằm trong các đầm, vịnh; ngư dân nuôi biển chủ yếu nuôi theo quy trình truyền thống, quy mô nhỏ, hầu hết lồng nuôi làm từ vật liệu gỗ truyền thống, không chịu được sóng gió lớn; một số vùng nuôi nằm chồng lấn với các quy hoạch khác theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Mặt khác, công nghệ nuôi biển bằng lồng bè còn lạc hậu, chưa thích ứng với biến đổi khí hậu. Một số đối tượng chưa có quy trình nuôi chuẩn hoặc chưa được nghiên cứu nuôi thử nghiệm, đa số sử dụng thức ăn tươi, mật độ nuôi tại các vùng nuôi chưa đảm bảo, khiến môi trường nuôi bị ô nhiễm.

Quy hoạch không gian biển sắp tới không thể loại bỏ nuôi trồng trong các vũng, vịnh. Việc cần làm ngay là giảm diện tích, quy mô nuôi trồng đối với các khu vực tập trung quá nhiều lồng bè. Điều đó sẽ giúp tăng cường lưu thông nước, tăng sức tải sinh thái và giảm thiểu tình trạng ô nhiễm nước và trầm tích ở vùng nuôi, hạn chế lây lan dịch bệnh.

Nuôi biển mở là một hướng đi không thể né tránh khi mà nhiều quốc gia đang đầu tư mạnh cho lĩnh vực này với nhiều hình thức nuôi khác nhau. Đây là công nghệ nuôi thân thiện môi trường, ít chịu rủi ro do sóng gió và thực sự mang tính công nghiệp với năng suất cao. Vấn đề cốt lõi để quy hoạch nuôi lồng vùng biển mở là phải có công nghệ nuôi phù hợp, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về thời tiết khí hậu và có hiểu biết sâu sắc về đặc điểm hải dương học ở vùng nuôi.

Hoàng Nam

Ý kiến bạn đọc

  • Tên của bạn

    Địa chỉ email

  • Nội dung bình luận

Tin cùng chuyên mục


Lên đầu trang