
Theo dấu 'vàng ròng' giữa lòng biển Quan Lạn
VBĐVN.vn - Dưới nắng chiều Quan Lạn (Quảng Ninh), trên bãi cát dài, những bóng người miệt mài lần theo dấu vết của sá sùng, loài giun biển nhỏ bé nhưng quý như ‘vàng ròng’.

Nhìn nước, nghe gió là biết sá sùng ở đâu
Đào sá sùng không chỉ là kế sinh nhai mà còn là nghề truyền thống gắn bó với hàng trăm hộ dân qua bao thế hệ, góp phần tạo nên một thương hiệu độc đáo của vùng đảo Quảng Ninh.
Sá sùng (còn gọi là sa sùng), trông giống con giun đất, thân màu nâu đỏ, có đường vân nhỏ, sống trong cát ướt ở những bãi triều. Loài hải sản này từng là vật tiến vua, được đánh giá cao nhờ giá trị dinh dưỡng và hương vị đặc biệt.
Hiện nay, sá sùng được dùng trong nhiều món ăn như nấu phở, xào, nướng khô, làm nước mắm… Đồng thời, chúng cũng là vị thuốc trong Đông y.
Sá sùng phân bố ở một số vùng biển Quảng Ninh, nhưng nổi tiếng nhất là ở Quan Lạn. Với nền cát đẹp, nước sạch, khí hậu thuận lợi, sá sùng nơi đây phát triển tốt, dày thịt, thơm ngon hơn các vùng khác.

Đầu giờ chiều, lúc gió biển ràn rạt, mặt cát còn ẩm nước, bà Vũ Thị Sáu, người lao động xã Quan Lạn vai đeo giỏ, tay cầm mai bước nhanh về phía bãi triều vừa lộ sau con nước rút.
Bà đã gắn bó với nghề đào sá sùng gần 40 năm, thuộc lòng từng nhịp rút của con nước. Chỉ bằng một cái liếc mắt, bà đã phát hiện ra dấu vết của sá sùng, một lỗ nhỏ li ti nằm khuất trong cát mịn, cho thấy sự hiện diện của đặc sản này.
Theo bà Sáu, nghề bắt sá sùng khá đặc biệt, phụ thuộc nhiều vào thời tiết và thủy triều. Từ tháng 3 đến tháng 8 là thời điểm khai thác sá sùng mạnh mẽ nhất, bước sang tháng 10 thì sản lượng ít hơn. “Công việc này không có thời gian cố định, khi nào thủy triều rút thì người dân sẽ tranh thủ đi lúc đó’, người phụ nữ cả đời gắn bó với biển đảo chia sẻ.
Trên bãi cát, giống bà Sáu, khoảng chục ngư dân địa phương, với những chiếc giỏ nhỏ và mai cùng nhau làm việc. Họ di chuyển nhanh nhẹn, mắt luôn dõi theo những dấu hiệu nhỏ nhất trên mặt cát.

Công việc khai thác sá sùng đòi hỏi kỹ năng khéo léo. Để bắt được sá sùng thì phải thật “tinh”, quan sát kĩ, đào nhanh, dứt khoát. Ngoài ra, người dân còn dựa trên chiều nước và con gió để xác định tổ sá sùng.
Ví dụ như khi gió thổi từ phía nam thì họ sẽ di chuyển sang phía đông bãi cát để làm việc. “Chúng tôi sống nhờ biển, cũng nhờ vào những kiến thức mà tổ tiên truyền lại. Nhìn chiều nước, nghe gió mà biết được sá sùng ở đâu, không có sách vở nào dạy cả”, bà Sáu nói thêm.
Loài hải sản quý hiếm
Ngoài kinh nghiệm, nghề đào sá sùng cũng khá vất vả, cần nhiều sức, đặc biệt là lực chân mạnh. Bí kíp là phải đào cách tổ sá sùng khoảng 10 cm, vì quá gần sẽ làm đứt con sá sùng, quá xa thì chúng sẽ trốn sâu hơn.
Mỗi ngày, công việc đào sá sùng thường kết thúc vào khoảng 18h. Trong mấy tiếng đồng hồ đó, một người thợ giỏi có thể đào được từ 3-4 kg sá sùng tươi. Nhưng, sản lượng sá sùng cũng không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nên có những ngày chỉ thu được vài lạng.

Sau khi thu hoạch, chúng tôi tiến hành sơ chế những con sá sùng. Đây là khâu vô cùng quan trọng, đòi hỏi sự tỉ mỉ nhằm đảm bảo thành phẩm chất lượng đến tay người tiêu dùng.
Bà Sáu hướng dẫn, sau khi sá sùng được thu hoạch sẽ được tiến hành rửa sạch để loại bỏ cát. Sau đó, người dân sẽ lộn trái ruột của sá sùng sử dụng một chiếc đũa được vót nhọn.
“Công đoạn này là khó nhất, vì chỉ có những người giàu kinh nghiệm mới có thể lộn được sá sùng một cách chính xác”, nữ ngư dân Quan Lạn nói.
Tiếp theo, sá sùng sẽ được ngâm trong nước sạch và nhúng nước nóng để đảm bảo loại bỏ hoàn toàn cát và chất bẩn. Cuối cùng, sá sùng sẽ được mang đi phơi khô bằng than hoa.
Bà Sáu chia sẻ thêm, bước này phải thật cẩn trọng, vì đây là loài đặc biệt, không thể mang đi phơi nắng vì sẽ làm biến dạng sản phẩm. Sá sùng phải được phơi bằng than hoa để tạo được mùi thơm và hương vị tươi ngon đặc trưng, và cũng phải canh lửa thật kĩ, tránh việc chúng bị teo nhỏ lại.
Quá trình này thường kéo dài từ 4 tới 5 giờ. Sau khi được phơi khô, khối lượng sá sùng giảm đi đáng kể, 10 kg sá sùng tươi chỉ thu lại được khoảng hơn 1 kg thành phẩm khô.
Sá sùng không chỉ là nguyên liệu quý trong ẩm thực Việt Nam, mà còn mang lại giá trị kinh tế cao cho vùng. Chị Hoàng Thị Xuân Điểm (Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã Quan Lạn) cho biết, từ xa xưa, khai thác sá sùng đã là nghề truyền thống của người dân trên đảo.
Đây là loại hải sản quý hiếm, mang đậm dấu ấn của vùng, được nhiều du khách gần xa lựa chọn làm quà biếu trong mỗi mùa du lịch. Mỗi tháng, sản lượng sá sùng khô của xã thu được khoảng gần 2 tấn, với giá thị trường dao động từ 4-6 triệu đồng/kg tùy chất lượng.

Điều này giúp mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể cho địa phương, đặc biệt là những hộ gia đình tham gia khai thác và chế biến. Hiện tại, hoạt động khai thác sá sùng tạo công ăn việc làm cho khoảng 500 lao động, chủ yếu là phụ nữ địa phương nhờ lợi nhuận kinh tế cao.
“Nhiều hộ gia đình nhờ nghề này mà có thu nhập ổn định từ 7-10 triệu đồng mỗi tháng. Từ đó, họ có điều kiện xây dựng nhà cửa khang trang, lo cho con cái ăn học đến nơi đến chốn”, bà Điểm chia sẻ.
Ngoài ra, hoạt động khai thác sá sùng tạo nên sức hút lớn cho du lịch địa phương, thúc đẩy các dịch vụ liên quan như lưu trú, ẩm thực và thương mại phát triển mạnh mẽ.
Trải qua bao thế hệ, nghề khai thác sá sùng vẫn là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, kinh tế của người dân Quan Lạn.
Dù vất vả, nghề khai thác sá sùng đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế địa phương, nâng cao đời sống người dân, đồng thời quảng bá hình ảnh của một Quan Lạn giàu bản sắc văn hóa đến với du khách gần xa.
Nguyễn Tường Vy (nongnghiepmoitruong.vn)
Ý kiến bạn đọc
Tên của bạn
Địa chỉ email
Nội dung bình luận